NHỚ THẦY BA TRƯƠNG
NGUYỄN VĂN QUYỀN
CỰU HỌC SINH THTH PHAN THANH GIẢN
NIÊN KHÓA 1968 – 1975
Từ lâu tôi mong được đọc những dòng chữ của các thầy cô, hoặc các bạn đồng môn nhắc về một người thầy vô cùng đặc biệt, tại ngôi trường có lịch sử lâu đời và nổi tiếng nhất tại miền Tây, đó là trường trung học tổng hợp Phan Thanh Giản, nhưng chờ đợi lâu quá mà chưa thấy hoặc chưa có dịp thấy, nên tôi phải viết những dòng chữ này. Người thầy mà tôi muốn nhắc đến đó là Thầy Đoàn Văn Trương (tức Thầy Ba Trương) dạy môn sử địa.
Từ lúc còn đi học hay sau này, khi xa hẳn mái trường và ngôi trường không còn mang tên cũ, khi có dịp ngồi lại bên nhau, dù tuổi tác có khác nhau, nghề nghiệp hoàn cảnh sống khác nhau, bạn bè cũng như thầy trò ở ngôi trường cũ đều nhắc đến Thầy với nhiều sự kiện cụ thể và nhiều tình tiết gần như giai thoại. Riêng bản thân tôi có ba sự kiện có sự hiện diện của Thầy trong ba sự kiện đó và qua đó làm thay đổi tình cảm và cuộc sống, hạnh phúc đời tôi.
Sự kiện thứ nhất, năm 1968 tôi thi đậu vào lớp đệ thất của trường trung học tổng hợp Phan Thanh Giản, được vào lớp đệ thất 7 P2, học phòng thứ 2 dãy giữa tính từ phía đường Trương Định (có trường Minh Nhựt-Văn Đạt), cuối dãy là phòng giáo viên nằm đối diện cầu thang lên lầu. Nhà vệ sinh nằm sát tường đường Trương Định, thầy cô giáo muốn đi vệ sinh, phải đi qua lớp học của chúng tôi, lớp đệ thất 7 P2 học buổi chiều.
Một lần trong lúc xếp hàng vào lớp, tôi đứng hàng bìa, sát với đường cống thoát nước, một anh bạn đứng phía trên tôi lấy tay búng vào lỗ tai của anh bạn đứng trước, cả năm sáu bạn đứng trong hàng thấy vậy cười ồ lên. Bỗng nhiên tôi bị một cái tát như trời giáng, kèm giọng nói: “Mất dạy, đái mà cười … đái mà cười à…” Tiếp theo tôi bị thêm 3 cái tát nữa, các bạn đứng phía trước tôi cùng số phận như tôi, tổng cộng có 6 đứa. Chúng tôi không biết chuyện gì xảy ra, chỉ nhận thấy một thầy giáo lớn con, chân mày bạc trắng đánh chúng tôi. Nhưng vì mới vào học, chúng tôi không biết thầy là ai, hơn nữa quá bất ngờ nên chúng tôi đứng chịu trận.
Chưa hết, sau khi vào lớp xong, tôi nhớ đó là giờ Thầy Phi dạy môn sử địa, thầy giáo lúc nãy bước vào lớp nói với Thầy Phi “ông giáo sư cho tôi mượn mấy trò lúc nãy lên phòng giáo viên cho tôi hỏi việc”. Thầy Phi đồng ý và sáu đứa chúng tôi riu ríu đi theo thầy vào phòng giáo viên. Thầy giáo hai tay chắp sau đít, mặt đỏ bừng, nạt hỏi chúng tôi: “Tại sao thầy đi đái mà mấy trò cười”, lúc đó tôi nước mắt lưng tròng, thu hết can đảm, vừa khóc vừa trả lời “Thưa thầy, tụi con không có cười thầy, vì bạn Khải búng lỗ tai của bạn đứng trước nên tụi con cười”. Lúc ấy thầy mới nguôi giận, nói “xếp hàng mà còn giỡn thì đánh cũng đáng, thôi về đi”. Lúc ấy chúng tôi mừng quá bước lẹ vào lớp, hai bên má đứa nào cũng đỏ lừ vì mấy cái bợp tai.
Sau đó tôi mới được biết thầy là thầy Ba Trương. Theo lời thầy Lê Văn Quới kể lại, sau việc thầy đánh chúng tôi, thầy Ba Trương đã đề nghị nhà trường xây nhà vệ sinh trong phòng giáo viên (trước đó thầy giáo và học sinh đi chung nhà vệ sinh như đã kể trên).
Sự kiện thứ hai, một buổi sáng năm tôi học lớp 9 (ở trường trung học tổng hợp Phan Thanh Giản, từ khối lớp 6 đến khối lớp 9 học buổi chiều quần xanh áo trắng ngắn tay, mang bảng đen, từ khối lớp 10 đến khối lớp 12 quần xanh áo trắng ngắn tay, mang bảng đỏ), tôi đang cầm tờ giấy bạc 100 đồng, từ nhà trong hẻm sát cầu Tham Tướng, đi chợ mua bánh mì. Tôi mặc quần xà lỏn, áo ngắn tay đi được nửa hẻm, bất ngờ tôi gặp thầy dắt chiếc xe đạp đòn dong, đi chiều ngược lại (Thầy sống với gia đình ở đường Nguyễn Công Trứ, cặp bờ sông Cần Thơ). Vì phát hiện ra thầy thì gần nhau quá, tôi không kịp né (lúc tôi đi học, không có học trò nào dám đi ngang qua mặt quý thầy) nên tôi gật đầu chào thầy. Bỗng nhiên thầy đưa tay ra bắt tay tôi, tôi buộc lòng phải bỏ tờ giấy bạc 100 đồng xuống đất, đưa hai tay ra bắt lại tay thầy. Không biết thầy có nhớ 4 năm trước đây, thầy đánh tôi 4 bợp tay hay không, thầy còn tươi cười nói: “Giỏi, ngoan, ráng học nha con”. Sau khi thầy đi qua, tôi vẫn còn sợ, tôi lượm tờ giấy bạc lên, tiếp tục đi chợ, vừa suy nghĩ mãi về thầy với hai thái độ hoàn toàn khác nhau.
Sự kiện thứ ba, sau khi học ban C (ban Văn Chương) năm lớp 10, tôi thấy đường vào đại học của ban C hạn chế có mấy ngành thôi, nên tôi nói với tía tôi, là tôi muốn chuyển qua học ban A (ban Vạn Vật) tía tôi nói để tìm người nói giúp, vì xin chuyển ban như thế rất khó. Sau đó tía tôi nói lại với ông già người Hoa, gọi là ông Ký, bán cà phê trước hãng xe Nhơn Hòa, gần cầu Tham Tướng. Ông Ký nói ông có thể nói giúp cho vì ông Ký có người bạn hay ghé uống cà phê, lại là giáo sư dạy tại trường Phan Thanh Giản. Sau đó ông Ký mới cho biết đó là giáo sư Đoàn Văn Trương. Tôi không biết chắc mình có được đổi ban hay không, nhưng vào đầu năm học lớp 11, khi đi đóng tiền niên liễm, tôi được báo là có tên trong lớp 11A2. Thầy đã giúp mà không nhận được một lời cám ơn hay biết mặt đứa học trò mà mình đã giúp, dù đứa học trò đó đã nhận bốn tát tai vào năm lớp đệ thất và cái bắt tay của thầy vào năm lớp 9. Nhờ chuyển qua học ban A vào năm lớp 12 (tôi học lớp 12A4), tôi gặp được một người con gái học chung lớp và có mối tình đầu đẹp như thơ, chỉ xuất hiện trong truyện cổ tích, mấy chục năm nay tôi vẫn hằng mong nhớ. Và cũng nhờ học ban A nên tôi thi đậu vào ngành Nông Nghiệp trường Đại học Cần Thơ, khi ra trường tôi vẫn làm việc ở đó cho đến bây giờ. Lần thứ ba có sự can thiệp của thầy trong cuộc đời tôi, đã làm thay đổi cả quá trình sống làm việc và tâm tư cả một cuộc đời.
Còn những chuyện kể và giai thoại về thầy thì nhiều vô số, nếu chép ra thì không biết bao giờ mới hết được. Tôi chỉ xin nhắc lại 3 câu chuyện, nói lên tính cách của thầy (do hai chân mày của thầy bạc trắng, rất dày nên đám học trò gọi thầy là “Thái Thượng Lão Quân” sau này chúng tôi còn gọi thầy là Bạch My Ưng Vương như trong truyện “Cô gái Đồ Long”).
Chuyện thứ nhất và thứ hai do thầy Lê Văn Quới kể: Vào một buổi sáng, Thầy Ba Trương đi xe đạp vào cổng trước (đường Phan Thanh Giản – nay là Xô Viết Nghệ Tỉnh), bỗng Thầy thấy một thanh niên mặc áo bỏ ngoài quần, mang dép lê (dép Nhật) nên thầy dựng xe đạp, túm áo người thanh niên, đưa tay lên định tát vì vào trường không mặc đồng phục, lại bỏ áo ngoài quần. May sao lúc ấy có thầy hiệu trưởng Nguyễn Trung Quân đang đi đến, vội la lớn “thầy ơi thầy, đây là ông Professeur Trung, dạy Đức ngữ mới về trường”. Lúc ấy thầy mới buông ông thầy Trung ra, và rối rít nói “xin lỗi ông Professeur nha, xin lỗi ông Professeur, chút xíu nữa là bậy lắm rồi.” Lúc ấy ai cũng dở khóc dở cười, vì tính thầy lúc nào cũng nóng và nghiêm, học sinh nào phạm lỗi thì kể như ăn bợp tay như chơi. Thầy Trung mới du học ở Đức về, trắng trẻo, rất trẻ, dáng vẻ như học sinh nên thầy mới lầm.
Chuyện thứ hai: năm thầy 78 tuổi, từ Bến Tre thầy về lại Cần Thơ. Thầy nhờ thầy Lê Văn Quới chở từ nhà thầy Quới về thăm nhà cũ của Thầy ở đường Nguyễn Công Trứ (nay là Nguyễn Thị Minh Khai). Khi chạy xe qua ngã ba đường Quang Trung và đường 30/4 (Lý Thái Tổ cũ), có một thanh niên chạy xe khá nhanh, làm thầy Quới phải thắng xe lại, thầy ngồi sau lấy cây ba ton đập vào lưng anh thanh niên nghe cái “bình”, nói: “mày muốn chết hả?” Lúc ấy Thầy Quới sợ quá, nghĩ rằng anh thanh niên kia sẽ quay xe lại sinh sự, nhưng may quá, người ấy chạy luôn, chắc là nhìn thấy thầy lớn tuổi, nên nhịn.
Câu chuyện thứ ba chính là do anh Bùi Hảo Tâm, kể lại kỷ niệm năm anh học lớp 10. Gia đình anh Tâm lúc ấy khá giả nên khi đi học anh có đeo dây chuyền vàng. Tướng anh Tâm lại cao ráo, lớn con. Thầy đi dạy, rất ghét ai đeo vàng, bạc nữ trang, nhất là nam, nhưng thầy không nói được vì trường không có quy định cấm. Hầu như buổi học nào có giờ của thầy, thầy cũng kêu anh Tâm trả bài. Biết thân phận anh Tâm học rất kỹ, thuộc lòng môn sử địa của thầy. Gần cuối năm học, thầy lại kêu anh Tâm trả bài, sau khi trả bài xong tự nhiên thầy nói với anh Tâm: “Con đứng gần thầy nói cho thầy nghe, đứng xa nói không nghe rõ.” Đúng lúc anh Tâm đứng sát bên thầy, anh nhận hai cái tát tai, theo anh diễn tả, cũng như trời giáng. Anh chưa hiểu tại sao mình bị thầy đánh, thì thầy nói: “Mấy con thấy chưa, cả năm nay nhiều đứa bị thầy đánh rồi, chỉ có thằng Tâm là thầy không đánh, vì thằng Tâm học giỏi chứ không phải vì Thầy thấy nó giàu, nó lớn con mà thầy sợ nó. Thầy không đánh vì nó học giỏi chứ nếu học dỡ cũng đánh như thường.” Sau đó thầy bảo anh Tâm về chỗ ngồi. Hiện anh Bùi Hảo Tâm còn ở huyện Kế Sách Tỉnh Sóc Trăng (làm nghề nuôi cá tra, Ba sa xuất khẩu).
Tôi nhắc đến thầy Ba Trương với lòng tiếc thương và tôn kính vô hạn. Với cương vị của một người thầy giáo có tuổi nghề và tuổi đời, Thầy là bậc “Thái sơn Bắc đẩu” trong hàng ngũ giáo viên của Trường Trung học Tổng hợp Phan Thanh Giản. Nhiều thế hệ nhà giáo từng là học trò của thầy, có lẽ thầy tuổi dần (sinh năm Giáp Dần 1914) nên tính thầy rất nóng và nghiêm khắc.
Nhưng trong những lần gặp nhau giữa các thầy cô, các bạn đồng môn ai cũng nhắc đến Thầy như một lần nhớ về tuổi thơ dưới mái trường Phan Thanh Giản thân yêu. Dù bị đánh oan hay ưng, chưa bao giờ tôi nghe lời nói nào của các bạn, thiếu sự tôn kính đối với thầy, cũng như các thầy khác tại trường. Thầy mất năm 1993, ở tuổi 80, an táng tại xã Lộc Thuận huyện Bình Đại tỉnh Bến Tre. Qua cầu An Hóa về hướng Bình Đại 4 cây số là tới mộ thầy (đặc biệt ở quê người dân gọi thầy là ông Bảy Trương). Thầy nóng tính nghiêm khắc như thế, nhưng hầu như nhắc đến thầy, mỗi người đều nhắc với sự kính trọng. Thế hệ chúng tôi tôn sư trọng đạo là thế.
Hôm nay, mạn phép các bậc thầy cô và các bậc đàn anh, tôi có một số dòng nhắc đến một người thầy hết sức đặc biệt, phong cách và cá tính sống mãi với thời gian, nếu tôi có nói điều gì đó chưa đúng hoặc bất kính với thầy các bạn hãy tha lỗi cho tôi, vì xuất phát từ tấm lòng kính trọng yêu mến thầy, tôi mới có những dòng chữ để nhắc về người thầy đặc biệt của chúng ta.
Những dòng chữ này cũng như một nén nhang, thành kính nhớ thầy Ba Trương, đồng thời cũng nhớ đến quý thầy cô giảng dạy cùng thời với thầy như: thầy Phan Văn Đặng, thầy Lý Quang Lịch, thầy Lương Vinh Sanh, thầy Trương Văn Hòa, thầy Cao Văn Tư, thầy Lâm Văn Ba, thầy Trương Nam, thầy Bùi Văn Vần, Cô Nguyễn Kim Liên (Hai thầy cô sau dạy tôi ở bậc tiểu học).
Kỷ niệm lúc nào cũng đẹp, nhất là kỷ niệm tuổi học trò. Những đứa học trò nhỏ của các thầy nay tiếp tục làm thầy, nhưng chúng con thấy không gian ngày nay rộng quá, tìm gặp quý thầy xưa vô cùng khó. Dù trong lúc đi học chúng con nhận được sự dạy dỗ nghiêm khắc của quý thầy cô, nhưng lúc nào chúng con cũng tri ân và nhớ rằng “thương cho roi cho vọt”. Trong thực tại hay ở một nơi nào đó chúng con vẫn cầu mong thầy cô được thanh tịnh an lòng, vì thế hệ chúng con vẫn tiếp bước noi gương quý thầy cô, nhớ và làm theo những lời dạy bảo. Câu nói của người xưa luôn khắc ghi trong dạ chúng con “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”.
“Từ đây hạc nội mây ngàn,
Gặp nhau trong giấc kê vàng mà thôi.
Lương sư chín suối thảnh thơi
Sân Trình, cửa Khổng biết đời nào quên.”
Mãi mãi thành kính nhớ thầy!
NGUYỄN VĂN QUYỀN
(Chs PTG nk 1968-1975)
h
Lớp Đệ Tam A, ngày ăn Tất Niên 1964, chụp với thầy Trực (mang kính đứng giữa). Áo đen góc trái: Nhã. Cách một người, chỉ ló đầu ra: Xinh làm trưởng lớp. Kế tiếp đầu hơi thấp xuống: Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình* (sức học có lẽ hạng 2 trong lớp). Phía trên Bình, lộ nửa khuôn mặt: Trung (?). Cách 3 người bên tay trái thầy Trực, mặt bị tối: Phước (sức học cỡ hạng 4-5). Kế tiếp là Nghĩa (sức học cỡ hạng 4-5) và Trinh (sức học cỡ hạng 3) cùng học y khoa. Dưới Phước, đang nhìn nghiêng là Diệp Minh Tâm. Hàng ngồi từ trái: Bích (đi Sĩ quan Hải quân khoảng 1970), một anh học rất giỏi (có lẽ hạng 1 trong lớp), kế đến là con người tài hoa Nguyễn Văn Sáu*, Thái Khi* cầm chai, cách 1 người là Hoàng Oanh mang kiếng hay quậy. Những người đánh dấu * còn ở Việt Nam, người giữ ảnh này có gặp lại. Xin bạn vui lòng bổ túc ghi những người bạn còn nhớ! tam_diep@hotmail.com Bắt đầu năm học Đệ Ngũ 1961-62, giáo sư dạy âm nhạc lớp tôi là thầy Thư, còn khá trẻ, có một buổi mở đầu khá chi tiết về việc h...
Comments
Post a Comment